Ngày nay, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức, trong đó khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu. Sản phẩm của khoa học và công nghệ chiếm phần lớn trong giá trị của nhiều hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, còn những mặt trái mà chúng ta không mong muốn là khoa học công nghệ bị lợi dụng sử dụng vào nhiều hoạt động phạm tội và được thế giới gọi chung là tội phạm sử dụng công nghệ cao. Đây là loại tội phạm mới, đang có xu hướng phát triển, diễn biến hết sức phức tạp, đa dạng và khó lường trên quy mô toàn cầu, là mối đe dọa lớn đối với sự ổn định, phát triển của các quốc gia và được xác định là một trong những nguy cơ, thách thức lớn nhất của cộng đồng quốc tế.
Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện nay nước ta có khoảng 31,5 triệu người sử dụng mạng Internet (chiếm 1/3 dân số cả nước), Internet băng rộng đạt 12 triệu thuê bao (Trong đó: Băng thông rộng cố định đạt 7 triệu thuê bao, băng thông rộng di động 3G đạt gần 5 triệu thuê bao); điện thoại di động đạt 138 triệu thuê bao. Về ứng dụng công nghệ thông tin, 100% cơ quan Nhà nước có trang, cổng thông tin điện tử, cung cấp hơn 100.000 dịch vụ công trực tuyến các loại phục vụ người dân và doanh nghiệp. Tội phạm sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam đã triệt để lợi dụng tính ưu việt của mạng Internet để thực hiện hành vi phạm tội, gây ra nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân.
Các đối tượng tội phạm công nghệ cao thường sử dụng một số thủ đoạn phổ biến sau:
- Đưa ra các thông tin giả thông qua hình thức tiếp nhận vốn nước ngoài bằng cách đưa ra số tiền vay nước ngoài, đầu tư nước ngoài, viện trợ với lãi suất thấp, thậm chí là 0% hoặc tỷ lệ ăn chia khi dự án được phê duyệt.
- Xâm nhập vào hệ thống email của doanh nghiệp để tìm hiểu các thông tin về hợp đồng, tài khoản chuyển tiền để tạo email giả giống như email của đối tác để chiếm đoạt tiền.
- Giả danh các nhà mạng viễn thông nhắn tin đến người dân về việc trúng thưởng: xe máy Liberty, xe SH, tặng 100 triệu đồng hoặc 1 năm sử dụng xăng miễn phí...; người được nhắn tin muốn nhận phần thưởng phải nộp một số tiền như tiền hồ sơ, phí nhận thưởng, thuế... vào các tài khoản do đối tượng cung cấp.
- Giả danh cán bộ cơ quan Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án... gọi điện thông báo liên quan đến một vụ án bất kỳ và yêu cầu khách hàng chuyển tiền để phục vụ điều tra.
- Thông qua các mạng xã hội, lập tài khoản giả là người nước ngoài, làm quen với nhiều bị hại (chủ yếu là phụ nữ), sau đó đặt vấn đề gửi tặng quà, tiền có giá trị lớn. Khi bị hại đồng ý, đối tượng khác sẽ gọi điện giả làm nhân viên hải quan, nhân viên chuyển phát... cho bị hại số tài khoản ngân hàng, yêu cầu chuyển tiền thuế, phí để được nhận quà.
- Sử dụng công nghệ chiếm đoạt tài khoản facebook của người dân, sau đó liên lạc với người quen của chủ tài khoản để nhờ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng hoặc nạp thẻ điện thoại.
- Lập tài khoản facebook giả bán hàng online, khi có người mua thì yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng nhưng không giao hàng như đã hẹn.
Tất cả những hình thức chuyển tiền trên sau đó đều bị đối tượng xấu chiếm đoạt.
Đa phần người dân bị lừa đảo là do lòng tham và sự thiếu hiểu biết. Từ việc nạp thẻ mua hồ sơ để nhận giải xe máy hoặc tiền mặt; đến chiêu trò hack nạp thẻ điện thoại di động; tống tiền qua điện thoại; gần đây trên mạng Internet đã xuất hiện 1 nhóm đối tượng chuyên lập các website, kho ứng dụng cho điện thoại di động, máy tính bảng có nội dung khiêu dâm. Từ đó chúng phát tán link trên các mạng xã hội nhằm lừa người sử dụng click vào để chiếm đoạt tiền của họ. Sau khi được cảnh báo, các nội dung khiêu dâm bị xóa bỏ trên các kho ứng dụng, tội phạm lại biến thể sang các trò lừa đảo mới như việc tạo ra các trò chơi với hình dạng bên ngoài bình thường có tiêu đề rất “hot” để câu khách song tiềm ẩn bên trong lại chứa các “mã độc” có khả năng gửi tin nhắn về tổng đài để chiếm đoạt tiền trong tài khoản của người sử dụng. Nguy hiểm hơn, có những “mã độc” có thể đánh cắp được các dữ liệu như ảnh, video, danh bạ, tin nhắn, thông tin về tài khoản Facebook, E-mail, tài khoản ngân hàng…
Theo đánh giá của cơ quan Công an, nguyên nhân gia tăng tội phạm sử dụng công nghệ cao một phần do công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực này còn nhiều sơ hở, chưa theo kịp với diễn biến của tình hình. Hệ thống pháp luật về phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao tuy đã được quan tâm xây dựng, bổ sung, sửa đổi nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, các cơ quan, doanh nghiệp và người dân chưa ý thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác bảo mật cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin, chủ quan với các cảnh báo an ninh, an toàn thông tin mạng. Nhiều tổ chức, doanh nghiệp chưa chú trọng đến đầu tư hệ thống bảo mật thông tin của đơn vị mình. Khách hàng, người sử dụng các dịch vụ ngân hàng trực tuyến, MXH còn chủ quan, mất cảnh giác, không bảo mật thông tin cá nhân dẫn đến bị tội phạm lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Do đó, để đấu tranh có hiệu quả với tội phạm sử dụng công nghệ cao, cần có sự tham gia của toàn xã hội: các cơ quan chuyên trách về pháp luật, về quản lý hành chính cần siết chặt quản lý, chủ động phát hiện các hành vi phạm tội để ngăn chặn, xử phạt; các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng và dịch vụ Internet, viễn thông, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thanh toán điện tử và thương mại điện tử cần được trang bị kiến thức cần thiết. Quan trọng hơn nữa, mỗi người dân cần có trách nhiệm tham gia phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao bằng cách bảo vệ mật khẩu, khóa mật khẩu, cơ sở dữ liệu, thông tin cá nhân, thông tin tài khoản và hệ thống thiết bị công nghệ cao của mình; khi sử dụng mạng viễn thông, internet, mạng xã hội cần nâng cao ý thức cảnh giác, chủ động cung cấp thông tin và phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an, giúp đỡ lực lượng Công an trong công tác xác minh, điều tra làm rõ các đối tượng phạm tội.
Bài viết: Thùy Trang