LÊ THỊ MINH ANH
Khoa Chính trị - Tâm lý - Giáo dục học
ĐẶT VẤN ĐỀ
Quản lý nguồn nhân lực chất lượng cao (NHLCLC) đào tạo tại các trường đại học được xem là yếu tố quan trọng, nòng cốt bảo đảm cho nên kinh tế cùa Việt Nam phát triển, hội nhập sâu rộng, bền vững, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và đáp ứng với điều kiện phát triển kinh tế tri thức thời đại mới. Để sớm hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2030 và nằm trong nhóm nước phát triển thu nhập trung bình cao vào năm 2045, cần xác định rõ vai trò của quản lý NHLCLC đào tạo tại các trường đại học, kết quả đạt được khi triển khai thực trong thực tế, những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết, để từ đó đề ra những giải pháp sát với thực tế, hoàn thành mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, so với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo (GD, ĐT), quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học vẫn còn nhiều bất cập cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Điều này đòi hỏi Nhà trường cần có các biện pháp đồng bộ để tháo gỡ trong thời gian tới.
NỘI DUNG
1. Thực trạng quản lý nguồn nhân lực chất lượng cao đào tạo tại các trường Đại học hiện nay
Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển nền kinh tế tri thức, kinh tế số, tăng cường đổi mới sáng tạo đòi hỏi nhiêu hơn và cao hơn các kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng xúc cảm xã hội. Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với sự phát triển liên quan đến tự động hóa, số hóa, nhu câu về kỹ năng thay đổi nhanh chóng, một số nghề sẽ biến mất, một số khác xuất hiện và những ngành khác lại thay đổi. Nguồn nhân lực (NNL) nói chung và nhân lực chất lượng cao (NLCLC) được đào tạo tại các trường đại học cũng phải được chuẩn bị sớm hơn, nhanh hơn, cập nhật hơn và theo cách tiếp cận thực tế hơn.
Hiện nay, dân số Việt Nam có hơn 98 triệu người, trong đó tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chiếm khoảng 68,7%. Đây là một lợi thế vô cùng thuận lợi để chúng ta khai thác, sử dụng vào các mục đích phát triến kinh tế - xã hội, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và kiến thiết đất nước. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 64,5%; năng suất lao động của Việt Nam được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 - 35%).
Về tình hình lao động, việc làm quý 1/2021 (đây là thời điểm chưa ảnh hưởng nhiều do dịch covid-19), trong tổng số 49,9 ttiệu lao động có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất với 39,5%, tương đương 19,7 triệu người; tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 32,3%, tương đương 16,1 triệu người. Lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng thấp nhất, 28,2%, tương đương 14,1 triệu người. So với quý IV/2020 và quý 1/2021, tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều tăng. Ngược lại, tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng quý 1/2021 lại có dấu hiệu giảm, so với cả quý trước và cùng kỳ năm trước (tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp tăng tương ứng là 0,8 điểm phần trăm và 0,2 điểm phần trăm; tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng giảm tương ứng là 1,3 điểm phần trăm và 0,7 điểm phần trăm). Tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện, ước đạt 64,5% năm 2020, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 24,5%, tăng so với năm 2015 ( 19,9%).
Những con số trên đã chứng minh quản lý NNLCLC được đào tạo tại các trường đại học đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện những chỉ tiêu, nội dung về phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. NNL chính là sự đóng góp của mỗi người ở những lĩnh vực, ngành hoạt động khác nhau, dưới tác động của những cơ chế, chính sách, NNL này đã, đang và sẽ được đánh thức, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh đang bị ngủ quên, hoặc chưa được sử dụng đúng lúc, đúng nơi một cách hiệu quả, hợp lý nhất. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực tế, quản lý NNLCLC được đào tạo tại các trường đại học hiện nay còn bộc lộ nhiều hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu, nhiệm vụ, nhất là những đòi hỏi của thị trường lao động thời kỳ hội nhập, cụ thể:
Thứ nhất, quản lý NNL nói chung và NLCLC nói riêng tại các trường đại học chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của xã hội
Nhân lực nói chung và nhân lực chất lượng cao nói riêng mặc dù được xác định là một trong những nguồn lực quan trọng nhất để phát triển đất nước, nhưng lại chưa được quan tâm phát triển cả về đào tạo kỹ năng, chăm sóc sức khỏe và giáo dục tâm hồn, đạo đức một cách đầy đủ. Quan niệm, nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của nhân lực, nhân lực chất lượng cao đối với phát triền kinh tế xã hội ở các cấp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp/người sử dụng lao động nhìn chung còn hời hợt, chưa thấu đáo. Coi GD, ĐT là quốc sách, song việc tổ chức thực hiện như thế nào cho xứng tầm lại chưa được quan tâm đúng mức. Trong các chủ trương, quyết định đầu tư của các dự án/công trình chủ đầu tư thường chỉ quan tâm đến đất đai, vốn, công nghệ, mà ít quan tâm đến nhân lực/lao động; thiếu các kế hoạch về NNL.
Thứ hai, chất lượng đào tạo NNLCLC tại các trường đại học chưa tương xứng với yêu cầu của xã hội
Chất lượng giáo dục đại học còn thấp và không đáp ứng nhu cầu kỹ năng của thị trường lao động. Sinh viên tốt nghiệp có năng lực chuyên môn chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn sản xuất - kinh doanh, dịch vụ; còn yếu về ngoại ngữ và các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp, khả năng làm việc theo tổ, nhóm, kỹ năng khởi nghiệp. Qua khảo sát trong các doanh nghiệp FDI, các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) ít hài lòng về chất lượng đào tạo nghề tại các địa phương và cho biết họ phải chi nhiều hơn cho việc đào tạo lại lao động mới tuyển vào.
Thứ ha, kết nối cung - cầu lao động chưa đáp ứng yêu cầu xã hội
Một vấn đề rất đáng quan tâm đó là tình trạng người lao động làm việc không phù hợp với ngành nghề được đào tạo, cũng như với trình độ chuyên môn và tay nghề được đào tạo. số liệu thống kê năm 2022 cho thấy 81,1% lao động có trình độ cao đẳng, 60,4% số lao động có trình độ trung cấp, 23,8% số lao động có trình độ đại học trở lên làm các công việc có yêu cầu trình độ chuyên môn kỹ thuật/kỹ năng thấp hơn so với trình độ chuyên môn kỹ thuật được đào tạo (theo bằng cấp/chứng chỉ). Mặt khác, có khoảng 35,1% lao động làm các công việc đòi hòi trình độ chuyên môn kỹ thuật/kỹ năng cao hơn so với bằng cấp của họ.
Thứ tư, vấn đề thế lực và thái độ lao động của NNLCLC còn nhiều bất cập
Theo công bố của Bộ Y tế, chiều cao trung bình của người Việt Nam đối với nam là xấp xỉ 1,68 m và nữ là 1,56 m. Chiều cao này là rất thấp so với chiều cao trung bình của đa số các nước trong khu vực châu Á và thấp hơn nhiều so với các nước châu Âu. Thể lực yếu, độ bền và sức tải trọng lao động kém nên người lao động Việt Nam thường chỉ làm việc với thời gian tập trung ngắn, chóng mệt mỏi và chất lượng không cao. Ngoài ra, vấn đề ý thức lao động, kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng mềm, khả năng làm việc trong môi trường đa văn hóa cũng được coi là những điểm yếu của lao động Việt Nam.
2. Giải pháp quản lý nguồn nhân lực chất lượng đào tạo tại các trường đại học cao đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH của Việt Nam
Một là, tăng cường nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của nhân lực chất lượng cao đào tạo tại các trường đại học trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Cần nhận thức NNLCLC đào tạo tại các trường đại học là tài nguyên quý giá nhất, lực lượng đầu tàu, đảm bảo sự phát triền nhanh và bền vững đất nước. Trong đột phá phát triển NNLCLC, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành. Đây chính là những “đầu tàu của đội ngũ đầu tàu”, đóng vai trò quyết định đối với phát triền NNLCLC từ nhận thức đến chủ trương, chính sách và hiệu quả trong triển khai thực tiễn. Bên cạnh đó, cần phải đổi mới tư duy trong tuyển dụng, đánh giá và đãi ngộ nhân lực trên cơ sở năng lực, hiệu quả công việc. Đây chính là động lực để mỗi cá nhân không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề và năng suất, hiệu quả lao động để khẳng định chất lượng cao của mình.
Quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với nhu cầu xã hội và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trong thời gian qua, Việt Nam đã xây dựng và thực hiện xong về cơ bản quy hoạch, quản lý NNL giai đoạn 2011-2020, song tình trạng thất nghiệp vẫn diễn ra phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng. Thực tế trên chứng tỏ, việc xây dựng, quy hoạch vẫn chưa bám sát và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, vẫn còn tình trạng các bộ, ngành, địa phương tuy có quy hoạch song tính liên thông, kết nối, phối kết hợp chưa hiệu quả, chưa sát với thực tế, việc quy hoạch còn mang tính hình thức nên công tác quản lý NNLCLC vẫn mang tính tự phát. Để khắc phục tình trạng này, mỗi bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải xây dựng quy hoạch, quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu xã hội và chiến lược phát triến kinh tế - xã hội của đơn vị và đất nước.
Cần xác định quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội, của hệ thống chính trị, trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, nhà trường, doanh nghiệp, gia đình cùng như của mỗi cá nhân, trong đó có nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt là tập trung vào giáo dục cho thanh niên nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm và cơ hội để họ phấn đấu, cống hiến cho đất nước trong điều kiện CMCN 4.0. cần nhận thức đúng đắn trong điều kiện hội nhập sâu rộng và sự phát triển nhanh chóng của CMCN 4.0, vì nhu cầu tuyển dụng lao động và chuyển đổi lao động và dịch chuyển lao động giữa các quốc gia, các vùng miền, dân tộc là rất lớn, người lao động dù ở bất cứ quốc gia nào, ngành nghề nào, lĩnh vực nào, nếu có trình độ cao, kỹ năng nghề nghiệp tốt, đều có cơ hội tìm việc làm và có thu nhập tốt. Mặt khác, cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của mọi cấp, mọi ngành và mọi người dân về vị trí, tầm quan trọng, mục tiêu, nội dung và phương hướng xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước dưới tác động của cuộc CMCN 4.0 hiện nay.
Hai là, tích cực đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách về xây dựng, quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học
Để tiếp tục quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học, có hiệu quả, đòi hỏi cần phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc quản NNLCLC đào tạo tại các trường đại học ở nước ta trước tác động của cuộc CMCN 4.0. Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển NNLCLC phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như: GD, ĐT, khoa học - công nghệ, môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, chính sách phát triển thị trường lao động, các điều kiện nhà ở, sinh sống, định cư... Trong đó, trước hết cần coi trọng việc tạo lập các cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng và đãi ngộ NNLCLC. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo, quản lý, cần mạnh dạn sử dụng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao; lôi cuốn họ nỗ lực thực hiện những kiến thức, chuyên môn đã được tích lũy, được đào tạo thông qua những chính sách sử dụng hợp lý. Bảo đảm đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, nghiên cứu cho những nhà khoa học, những tài năng trẻ. Thường xuyên tôn vinh nhân tài đi kèm cơ chế khuyên khích về lợi ích vật chất đối với những người có cống hiến mang lại nhiều lợi ích cho xã hội. Thực tế cho thấy, NNLCLC đào tạo tại các trường đại học phải chú trọng từ người lao động có kỹ năng, các nhà doanh nghiệp tài ba, các nhà quản lý giỏi, các nhà lãnh đạo chính trị xuất sắc. Vì vậy, cần thiết lập một quy trình phát hiện, tìm tòi, đánh giá chặt chẽ và tuyển chọn công khai NNL phù hợp với từng nơi và từng yêu cầu cụ thể về NNL như cách nhiều nước đã làm thành công. Các địa phương có thể tự cân đối nguồn tài chính, thí điểm ký hợp đồng trả công cho những người có tài đáp ứng yêu cầu công việc theo giá thị trường nhằm khắc phục các bất cập về lương, chế độ chính sách khiến cho việc thu hút NNLCLC gặp khó khăn. Trên một số ngành công nghệ cao, cần có thử nghiệm táo bạo trong việc mời những trí thức đã thành công ở các nước phát triển về nắm giữ một số vị trí then chốt nhằm tạo ra các đột phá cho sự thay đổi.
Ba là, xây dựng và hoàn thiện chiến lược tổng thể quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học trong thời kỳ mới
Quản 1ý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, với nhu cầu xã hội và phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trong thời gian qua, Việt Nam đã xây dựng và thực hiện xong về cơ bản Quy hoạch phát triển NNL giai đoạn 2011-2020, song tình trạng thất nghiệp vẫn rất phổ biến và có xu hướng ngày càng tăng. Thực tế trên chứng tỏ, việc xây dựng, quy hoạch vẫn chưa bám sát và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, vần còn tình trạng các bộ, ngành, địa phương tuy có quy hoạch song tính liên thông, kết nối, phối kết hợp chưa hiệu quả, chưa sát với thực tế, việc quy hoạch còn mang tính hình thức nên công tác quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học vần mang tính tự phát. Ngành Giáo dục thì cứ đào tạo; các cơ, tổ chức, doanh nghiệp thì vẫn sử dụng theo cách riêng của mình. Để khắc phục tình trạng này, mỗi bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp phải xây dựng quy hoạch, quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, nhu cầu xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đơn vị và đất nước.
Bốn là, đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện, đồng bộ GD, ĐT
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp trọng yếu để xây dựng, quản lý NNL nói chung,, NHLCLC đào tạo tại các trường đại học nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nói chung và trước tác động của cuộc CMCN 4.0 nói riêng. Theo đó, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, tổ chức, sắp xếp lại hệ thống giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Khắc phục các bất hợp lý về quy mô đào tạo, cơ cấu trình độ ngành, nghề và cơ cấu vùng, miền; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ. Chú trọng hơn nữa phát triến ngành tự động hóa, đầu tư cho các nhóm nghiên cứu sâu về các lĩnh vực kỹ thuật số, công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, thông tin vệ tinh, số hóa, năng lượng mới, vật liệu mới, công nghệ sinh học và sự tích hợp giữa chúng. Đồng thời, xác định đúng khả năng và nhu cầu đào tạo, tăng cường chất lượng công tác lập kế hoạch, dự báo thường xuyên và cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực của xã hội, nhất là nhu cầu của các doanh nghiệp, các địa phương nhằm điều tiết quy mô, cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo cho phù hợp.
Năm là, đấy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp.
Các trường đại học cần chủ động ký kết với doanh nghiệp các hợp đồng đào tạo nhân lực có địa chỉ, trao đổi chuyên gia và chia sẻ cơ sở vật chất kỹ thuật. Các trường đại học sẽ đào tạo nhân lực theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, đồng thời mời các nhà quản lý giàu kinh nghiệm từ phía các doanh nghiệp tham gia thỉnh giảng, qua đó bổ sung NNLCLC cho các trường đại học. Các trường đại học cần chủ động đề xuất thực hiện các hợp đồng đào tạo tại doanh nghiệp, hoặc thuê cơ sở hạ tầng kĩ thuật của doanh nghiệp để phục vụ dạy học thực hành, qua đó tăng cường bảo đảm cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại cho phát triển NNLCLC. Đẩy mạnh hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyên giao công nghệ với các doanh nghiệp, vừa giúp hoạt động nghiên cứu khoa học của các trường đại học bám sát thực tiễn, mang tính ứng dụng cao, đồng thời giúp tạo nguồn thu quan trọng phục vụ cho quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học.
III. KẾT LUẬN
Quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học đáp ứng yêu cầu cùa sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi sự thống nhất ý chí và hành động của các cấp lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, trong đó vai trò hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược của những người lãnh đạo đứng đầu Đảng, Nhà nước có tính chất quyết định. Bên cạnh đó còn đòi hỏi trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, nhà trường, doanh nghiệp, gia đình cũng như của mỗi cá nhân... Tập trung mọi nguồn lực thực hiện tốt các giãi pháp quản lý NNLCLC đào tạo tại các trường đại học sẽ góp phần khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu NNL, nhất là NNLCLC ở Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Khánh (2012), Nguồn lực trí tuệ Việt Nam, lịch sử, hiện trạng và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và đào tạo: Phát triển nguôn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Từ Thúy Anh và cộng sự (2020), Cơ sở khoa học xây dựng chiến lược phát triến nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Quốc gia, Mã số KHGD/16-20.
4. Vũ Văn Phúc, Nguyễn Duy Hùng, (Chủ biên) (2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.