Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là bộ phận cấu thành tư tưởng của Người, có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Người đã đi xa nhưng tư tưởng về văn hóa của Người vẫn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, là di sản quý báu để mỗi chúng ta học tập và làm theo, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đối với giảng viên ở các trường đại học, học tập tư tưởng của Người về văn hóa để xây dựng văn hóa sư phạm có ý nghĩa rất quan trọng để từng bước hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của người cán bộ “vừa hồng”, “vừa chuyên” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các nhà trường đại học nói riêng đưa đất nước bước vào kỉ nguyển mới, kỉ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu trên thế giới.
Ảnh minh hoạ: Trường Đại học Hải Dương
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên luận điểm nổi tiếng mang tầm kinh điển “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” điều đó có nghĩa là văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người, trở thành nhu cầu vật chất, tinh thần, phục vụ hữu ích cho đời sống con người. Có thể khái quát một số nét cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ở những khía cạnh sau:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của lịch sử đất nước. Văn hóa được hình thành, bồi đắp, phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước chính trong quá trình đó đã làm nên sức mạnh của người Việt Nam, đó là văn hóa giữ nước, trở thành mạch nguồn bồi đắp cho lòng yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng với quân thù xâm lược, không bao giờ giơ tay đầu hàng hoặc khoanh tay đứng nhìn Tổ quốc bị lâm nguy. Khi quân địch xâm lược chỉ có tư tưởng tiến công là chủ đạo, không bao giờ có lùi bước hay chần chừ, do dự trước súng ống, vũ khí tối tân hiện đại của quân thù. Người khẳng định: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò văn hóa phải phục vụ cho dân tộc. Văn hóa do con người sáng tạo ra trong lịch sử và chính văn hóa đó quay trở lại phục vụ cho đời sống sinh hoạt của con người, tạo thành bản sắc, nét đẹp riêng có của dân tộc. Với 54 anh em dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ trải dài từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi cho đến miền ngược, từ đồng bằng cho đến miền núi, mỗi dân tộc là một nét văn hóa đặc trưng cho lối sống, tính cách, tâm lý, song đều tựu chung ở mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa của các dân tộc là phong phú, đa dạng, thống nhất không có xung khắc về văn hóa, tất cả vì mục tiêu chung của đất nước, đó chính là điểm tương đồng, sự hội tụ và tỏa sáng của văn hóa Việt Nam. Văn hóa đã được Hồ Chí Minh khai thác ở tầng sâu đó là cuộc cách mạng trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh loại bỏ văn hóa thủ cựu, lạc hậu, dùng làm công cụ để nô dịch, áp bức, bóc lột nhân dân ta ra khỏi đời sống xã hội con người, xây dựng nền văn hóa mới, phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc. Văn hóa phải thấm sâu vào trong mỗi con người, vào mỗi suy nghĩa, hành động trở thành những chiến sỹ tiên phong trên các mặt trận khác nhau.
Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu văn hóa phải đi sâu vào quần chúng nhân dân, lấy đó làm mục tiêu, động lực cho sự phát triển của văn hóa sau này. Những giá trị văn hóa mà chúng ta có được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, song có nguyên nhân cơ bản, chủ yếu là do nhân dân sáng tạo và lưu truyền đến ngày hôm nay. Những giá trị văn hóa như chị ngã em nâng, kính già yêu trẻ, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn….được ông cha ta đúc kết, khái quát từ ngàn xưa và đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là triết lý hết sức sâu sắc thấm thía trên mọi phương diện để nhắc nhở, giáo dục, bồi dưỡng mỗi người hãy giữ lấy nếp nhà, giữ lấy văn hóa của gia đình, đất nước. Văn hóa đi sâu vào trong đời sống của các tầng lớp nhân dân, lột tả và phản ánh được những khía cạnh khác nhau của cuộc sống con người, làm cho đời sống con người ngày càng phong phú, được nâng lên về mọi mặt, đó chính là sự kết hợp hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống tình thần. Ngày 23/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khai mạc Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Người thiết tha mong muốn: Nền văn hóa mới của nước nhà sẽ lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở, văn hóa phải làm cho mọi người có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng; đối với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam, từ già đến trẻ, cả nam và nữ, ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng những hạnh phúc mà mình đáng được hưởng.
II. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA ĐỂ XÂY DỰNG VĂN HÓA SƯ PHẠM CỦA GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC HIỆN NAY
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, thời gian qua đội ngũ giảng viên ở các trường đại học đã tích cực, chủ động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về văn hóa nói chung và xây dựng văn hóa sư phạm nói riêng. Học tập, rèn luyện ở Người về cách ứng xử giải quyết các mối quan hệ trong công việc, tình huống trên lớp đảm bảo văn hóa văn minh, lành mạnh, tạo được sự thân thiện với người học. Cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo khoa thường xuyên nhắc nhở giảng viên có thái độ ứng xử đúng mực với người học, không để xảy ra tai tiếng, nhất là ở những vấn đề nhạy cảm, tế nhị càng phải thể hiện văn hóa sư phạm của giảng viên, của cán bộ, đảng viên. Xây dựng văn hóa sư phạm của giảng viên ở các trường đại học đã trở thành nhu cầu, động cơ bên trong thôi thúc mỗi giảng viên hành động. Nhiều phong trào thi đua xây dựng văn hóa sư phạm đã diễn ra, như: xây dựng môi trường trong sạch, lành mạnh để giảng viên phát huy tài năng của mình; thi đua dạy tốt, học tốt, bài giảng kiểu mẫu, giảng viên là tấm gương sáng về bản lĩnh, ý chí, nghị lực….Qua những hoạt động như vậy, đã tạo thành nề nếp sinh hoạt thói quen cho mỗi giảng viên trong công việc cũng như trong cuộc sống, tạo sự gần gũi thân thiện hết sức chân thành, cởi mở giữa giảng viên với giảng viên, giữa giảng viên với câp trên, giữa giảng viên với sinh viên.
Trong bối cảnh những tác động của mặt trái cơ chế thị trường và nhu cầu cuộc sống đặt ra hàng ngày, hàng giờ rất cấp bách, đó là vấn đề cơm, áo, gạo, tiền, hàng loạt những mối quan hệ xã hội đặt ra rất phức tạp; trong khi đó yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng tăng, nhất là yêu cầu về phẩm chất đạo đức, lối sống người giảng viên luôn phải là hình mẫu tiêu biểu về mọi mặt để cho người học học tập, noi theo. Vì vậy, để xây dựng văn hóa sư phạm của giảng viên ở các trường đại học theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào một số nội dung, biện pháp sau:
Một là, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa nói chung và văn hóa sư phạm nói riêng
Chủ tịch Hồ Chí Minh mẫu mực tuyệt vời về văn hóa nói chung và văn hóa sư phạm nói riêng. Mỗi lời nói và hành động của Người đều toát lên văn hóa sư phạm rất giản dị, mộc mạc nhưng toát lên văn hóa lịch thiệp chứa đựng một tầm văn hóa ở chiều sâu tư duy văn hóa Hồ Chí Minh. Văn hóa sư phạm Hồ Chí Minh là sự chân thành, mộc mạc, ngôn ngữ biểu đạt ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu nhưng không phải ai cũng làm theo được. Giảng viên ở các trường đại học phải tự mình quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa sư phạm và những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước, phẩm chất đạo đức, lối sống của nhà giáo; cụ thể hóa thể chế, quan điểm, đường lối đó vào trong suy nghĩ, hành động, đó là thực hành bài giảng cho người học, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nghiêm quy chế, gương mẫu ở mọi lúc, mọi nơi; thường xuyên tự làm mới bản thân, nhất là trong dạy học, truyền thụ tri thức đến với người học; thường xuyên trau dồi nội dung, phương pháp dậy học phù hợp với môi trường công tác, nhiệm vụ được giao; đặt ra những yêu cầu cao cho bản thân trong văn hóa sư phạm; đẩy mạnh việc học tâp và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về văn hóa; tăng cường giao lưu, học hỏi giữa giảng viên và sinh viên để đáp ứng những đòi hỏi đặt ra ngày càng cao của mỗi sinh viên hiện nay. Kết hợp nhuần nhuyễn các hình thức, phương pháp truyền thụ dạy học cho sinh viên,; căn cứ vào đối tượng sinh viên xác định hình thức, phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo, không dập khuôn máy mọc, cứng nhắc trong giảng dạy, truyền thụ tri thức; sử dụng ngôn ngữ sư phạm hết sức trong sáng, giàu cảm xúc, dễ nhớ, dễ hiểu, gắn liền với cuộc sống đời thường của sinh viên; tránh sử dụng ngôn ngữ xa rời thực tiễn, tầm chương, trích cứ không phug hợp với nhận thức của người học. Mỗi giảng viên chiến sỹ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, lý luận, cùng với việc trang bị thế giới quan khoa học, quan điểm sai trái, thù địch, nhận thức lệch lạc không đúng trong sinh viên; qua đó, định hướng chính trị, tư tưởng đúng đắn, xây dựng, bồi dưỡng niềm tin chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho sinh viên.
Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức, lực lượng xây dựng văn hóa sư phạm cho giảng viên
Các tổ chức, lực lượng của nhà trường đều phải tham gia vào hoạt động xây dựng văn hóa sư phạm cho giảng viên. Giảng viên là bộ phận cấu thành của văn hóa sư phạm, tham gia vào quá trình đó là trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng. Xây dựng môi trường văn hóa thật sự trong sạch, lành mạnh với các mối quan hệ trong sáng, tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên được phát triển về mọi mặt, không bị bó hẹp ở một không gian, thời gian nhất định, có thể mở rộng giao lưu, hợp tác giữa các đơn vị với nhau. Chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa, quy định của nhà trường để giảng viên căn cứ vào đó thực hiện một cách tự giác, tự nguyện, không cần thiết phải có các chế tài mang tính khắt khe của pháp luật, mệnh lệnh hành chính. Các tổ chức, lực lượng tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở, chân thành, tôn trọng lẫn nhau, không có sự đố kỵ, ganh đua, kèn cựa với nhau. Xây dựng tập thể giảng viên, sinh viên đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, ở đó thực sự là mái nhà chung, là ngọn lửa nhiệt huyết của sự nhiệt huyết. Xây dựng gương điển hình tiên tiến, những tấm gương mẫu mực, tiêu biểu về văn hóa sư phạm thực sự là mực thước trong lời nói và hành động không chỉ trong con mắt của đồng nghiệp mà trong con mắt của người học; giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong tập thể sư phạm, nhất là mối quan hệ với người học rất dễ nảy sinh những vấn đề ngoài vòng kiểm soát, nếu bản thân bản lĩnh không vững, không có văn hóa từ chối rất dễ mắc sai lầm. Do đó, từng bộ phận, lực lượng tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình có sự phối kết hợp hài hòa, hợp lý xây dựng văn hóa sự phạm cho giảng viên ở các nhà trường quân đội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Văn hóa sư phạm của giảng viên hướng đến người học là chủ yếu, lấy người học làm trung tâm, hệ quy chế cho sự đổi mới sáng tạo, để lại ấn tượng sâu đậm đối với người học. Truyền thêm ý chí, niềm tin và sự kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.
Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động của mỗi giảng viên để xây dựng văn hóa sư phạm
Mỗi giảng viên ở các nhà trường đại học phải thường xuyên rèn luyện văn hóa sư phạm cho mình, không ai có thể làm thay, làm hộ và hiểu được đặc tính mỗi người bằng chính bản thân mình. Việc rèn luyện văn hóa sự phạm là để phục vụ cho nhiệm vụ, quá trình công tác, không phải cho ai, tuy nhiên sự rèn luyện văn hóa sư phạm của mỗi giảng viên lại góp phần xây dựng đơn vị vững vàng toàn diện. Theo đó, tính tích cực, chủ động của mỗi giảng viên để xây dựng văn hóa sư phạm là rất quan trọng không thể thiếu được trong các nội dung xây dựng tập thể sư phạm vững mạnh toàn diện hiện nay. Xây dựng đạo đức, văn hóa, lối sống vui tươi, lành mạnh trên các nền tảng giá trị văn hóa của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến quá trình tự thẩm thấu, lan tỏa của các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đó không phải là sự dùng văn hóa vào các mục đích chính trị để thực hiện thủ đoạn chính trị như giai cấp thống trị đã làm trước đây. Sử dụng văn hóa là công cụ thúc đẩy xã hội phát triển đi lên ổn định, bền vững, gắn kết con người lại gần với nhau hơn. Đó mới là tầng sâu của văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng. Giảng viên ở các nhà trường đại học trau dồi kiến thức, nâng lực đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ngày càng cao hiện nay; hoàn thành tốt chức trách, nhiệm được giao; tự mình bổ sung vốn sống, kinh nghiệm, hiểu biết các vấn đề xã hội, giữ vững quan điểm lập trường thái độ của Đảng, Nhà nước; đấu tranh phê phán với văn hóa không lành mạng, thiếu tính xây dựng, đi ngược lại lợi ích của tập thể, không có động cơ trong sáng, có biểu hiện kèn cựa, đố kỵ trong tập thể sự phạm giàu tính nhân ái, nhân văn. Chủ động đón nhận, tiếp thu văn hóa tốt, tiến hộ, phù hợp với môi trường công tác làm giàu thêm văn hóa vốn có của bản thân, có cái nhìn khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể trong mỗi vấn đề, sự vật, hiện tượng để không rơi vào chủ quan, duy ý chí, định kiến, hẹp hòi với các mối quan hệ ở môi trường xung quanh, nhất là vấn đề tế nhị, nhạy cảm, phức tạp hiện nay. Mỗi giảng viên không ngừng cập nhật thông tin mới, mang tính thời sự nóng hổi, được sinh viên quan tâm đưa vào nội dung bài giảng; sử dụng thành tạo công nghệ thông tin để khai thác, sử dụng thông tin một cách hữu ích, hiệu qua, phù hợp với từng chủ đề bài giảng; đề cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng, rèn luyện về nội dung, phương pháp giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho sinh viên khi đứng trên bục giảng.
III. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam phát triển đi lên, là một trong ba trụ cột để dây dựng đất nước hiện nay. Vận dụng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng văn hóa sư phạm của giảng viên ở các nhà trường đại học là góp phần nâng cao chất lượng, đáp ứng nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong quá trình thực hành mỗi giảng viên cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc những quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước về văn hóa, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có ý chí, khát vọng vươn lên ở mọi múc, mọi nơi, không sợ khó khăn, gian khổ, hy sinh, đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động cách mạng vì sự trường tồn, phát triển của dân tộc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.431.
2. Hồ Chí Minh (1997), Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.10.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 (2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.199-200.
4. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi, tr.330.
Giảng viên ThS. Nguyễn Thị Liên, Khoa Chính trị - Tâm lý - Giáo dục học