Giảng viên Trường Đại học Hải Dương với chủ đề "Doanh nghiệp và khởi nghiệp trẻ - Đột phá cho kinh tế tư nhân"

Phóng viên (PV) Đài truyền hình Hải Dương đã có cuộc phỏng vấn với TS. Lê Nguyệt, Trưởng khoa Kinh tế - Quản trị, Trường Đại học Hải Dương, Phó chủ tịch Hội nữ doanh nhân tỉnh Hải Dương, Hiệp hội DNNVV tỉnh HD về một số nội dung liên quan đến Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ chính trị ban hành ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân đến năm 2030, tầm nhìn 2045.


Nội dung cuộc phỏng vấn như sau:

PV: Theo bà thì hiện nay, vai trò của kinh tế tư nhân (KTTN) đang ở mức nào trong tổng thể nền kinh tế ?

TS. Lê Nguyệt: Có thể khẳng định rằng KTTN hiện nay đang đóng vai trò ngày càng quan trọng và mang tính quyết định trong tổng thể nền kinh tế Việt Nam, thể hiện ở các khía cạnh sau:

1 - Vai trò vị thế của KTTN đã được nhận thức và đánh giá ngày càng rõ ràng, sâu sắc hơn qua các kỳ đại hội

+ Dấu mốc đầu tiên bắt đầu từ công cuộc đổi mới tại đại hội VI (1986), đây là lần đầu tiên, Đảng ta chính thức “thừa nhận KTTN có vai trò và là một bộ phận trong nền Kinh tế quốc dân.

+ Đại hội VII (1996): Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò của KTTN, trong đó nêu rõ: “Phát triển KTTN, và khuyến khích làm giàu chính đáng.

+ Một dấu mốc quan trọng đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức thể hiện trong Nghị quyết TW5 khóa XII khẳng định,  “Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”.

Như vậy qua các kỳ Đại hội, nhận thức của Đảng về KTTN đã chuyển từ “thừa nhận” sang “khuyến khích”, và hiện nay thì “khẳng định”  “coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Điều này thể hiện sự tiến bộ trong tư duy lý luận & vai trò ngày càng lớn của KTTN trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

- Nhìn nhận vai trò của khu vực KTNN thông qua mức đóng góp cho quy mô nền kinh tế và xã hội:

Hiện nay, khu vực KTTN có khoảng 940 nghìn DN và 5,2 triệu HKD cá thể, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% NSNN, gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra 42 triệu việc làm (82% tổng LĐ).

3 - Khu vực KTTN có khả năng thu hút đầu tư và đổi mới sáng tạo: đây là khu vực có khả năng thích ứng nhanh với thị trường, tiên phong trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng xuất lao động, thúc đẩy chuyển đổi số và khởi nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đã đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như công nghệ cao, logistics, giáo dục, y tế và năng lượng tái tạo.         

4 - Nhiều DNTN đã phát triển lớn mạnh và tạo vị thế cho quốc gia: Một số tập đoàn tư nhân lớn như Vingroup, FPT, Masan... đã vươn ra thị trường quốc tế, nâng cao vị thế thương hiệu Việt trên thị trường toàn cầu.

Với những khía cạnh trên, có thể khẳng định, KTTN hiện đang giữ vai trò xương sống trong nền kinh tế Việt Nam, là động lực tăng trưởng chủ đạo trong giai đoạn tới nếu được tiếp tục khơi thông thể chế và hỗ trợ một cách đúng mức.

PV: Gần đây thì Nghị quyết số 68-NQ/TW của BCT ban hành 4/5/2025 về phát triển DN khu vực tư nhân đến năm 2030, tầm nhìn 2045 được ban hành đã đưa ra nhiều chính sách để phát triển KTTN, vậy bà đánh giá như thế nào về các chính sách này đối với sự phát triển KTTN?

 TS. Lê Nguyệt: Kể từ năm 1986 đến nay, KTTN đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, khẳng định vai trò động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, đóng góp vào GDP, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người dân; đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đánh giá chưa xứng tầm với tiềm năng, chưa đáp ứng yêu cầu kỳ vọng là lực lượng nòng cốt. Hầu hết DNTN hiện nay có quy mô nhỏ và vừa, thậm chí là siêu nhỏ; tiềm lực tài chính và trình độ quản trị hạn chế; năng lực công nghệ và đổi mới sáng tạo thấp; năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh chưa cao; thiếu kết nối giữa DNTN với các Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa xoá bỏ định kiến về vị trí, vai trò của KTTN trong nền kinh tế; thể chế, pháp luật còn vướng mắc; khó khăn trong tiếp cận vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả và khó tiếp cận.

Trước thực trạng trên thì sự ra đời của NQ 68 của Bộ chính trị đánh dấu cột mốc có tính lịch sử trong định hướng phát triển KTTN ở Việt Nam, tạo niềm hứng khởi cho doanh nhân, đặc biệt Nghị quyết đã đưa ra các chính sách, giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trên, tạo cơ hội cho cộng đồng DNTN phát triển mạnh mẽ.

Nghị quyết 68 đề ra 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp, bao gồm: (1) Hoàn thiện thể chế, chính sách; (2) Cải thiện môi trường kinh doanh; (3) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; (3) Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận các nguồn lực vốn, đất đai, nhân lực chất lượng cao; (4) Thúc đẩy DN đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; (5) Tăng cường kết nối giữa các khu vực kinh tế; (6) Hình thành các DN lớn và vừa, các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm khu vực và toàn cầu; (7) Hỗ trợ thiết thực cho nhóm DNNVV, siêu nhỏ và Hộ kinh doanh (HKD); (8) Thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp kinh doanh có trách nhiệm, đạo đức và tuân thủ luật pháp.

Và ngay sau NQ68-NQ/TW của BCT, thì ngày 16/5/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 138/NQ-CP về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của BCT về phát triển kinh tế tư nhân; Và Nghị quyết số 198/2025/QH-15 của Quốc hội ban hành ngày 17/5/2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển  kinh tế tư nhân.

Từ những chính sách, giải pháp được đưa ra tại NQ68 của Bộ Chính trị và kế hoạch hành động tại NQ138 của Chính phủ, và NQ 198 của Quốc hội, tôi tin rằng trong thời gian tới sẽ tạo ra sự đột phá trong việc phát triển KTTN. Tuy nhiên, việc triển khai hiệu quả các giải pháp đòi hỏi sự quyết tâm cao và phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ngành và địa phương để NQ thực sự đi vào cuộc sống. Nếu được triển khai đồng bộ và hiệu quả, NQ68 sẽ là nền tảng quan trọng để khu vực KTTN thực sự trở thành động lực chính cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững của đất nước, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đặc biệt giúp thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề ra vào năm 2030 đạt 2 triệu doanh nghiệp, đóng góp 55-58% GDP, có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn năm 2045: có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp; đóng góp khoảng trên 60% GDP.

PV: Nghị quyết 68-NQ/TW có nhắc đến việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy không dùng riêng từ “start-up”, nghị quyết thể hiện rõ định hướng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập, đổi mới sáng tạo - vốn là thành phần chính trong hệ sinh thái khởi nghiệp. Vậy,  Nghị quyết này có ý nghĩa gì đối với các Doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp?

TS. Lê Nguyệt: Có thể nói rằng, Nghị quyết 68 của Bộ chính trị tạo điều kiện phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp tư nhân nhân nói chung, trong đó bao gồm cả doanh nghiệp khởi nghiệp. NQ này có ý nghĩa quan trọng cho DN khởi nghiệp, khai thông nhiều nút thắt còn tồn tại hiện nay:

Thnhất, NQ68-NQ/TW khẳng định vị thế của DN khởi nghiệp trong nền kinh tế: Thông qua Việc đưa ra chủ trương phát triển khu vực KTTN, trong đó nhấn mạnh hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và mới thành lập, cho thấy Nhà nước đã ghi nhận DN khởi nghiệp là một bộ phận quan trọng của cộng đồng DN.

Thhai, Tạo nền tảng chính sách rõ ràng cho hỗ trợ khởi nghiệp, như: Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo; Ưu tiên doanh nghiệp khởi nghiệp trong tiếp cận vốn, hạ tầng, thông tin thị trường và chính sách thuế; Tháo gỡ rào cản hành chính - một trong những trở ngại lớn nhất đối với start-up.

Thba, Hỗ trợ hình thành doanh nghiệp quy mô vừa, có khả năng bứt phá: Về các đơn vị khởi nghiệp tại Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là DN siêu nhỏ và nhỏ. Nghị NQ68-NQ/TW đặt mục tiêu: Nâng cao năng lực quản trị và chuyển đổi số cho doanh nghiệp nhỏ; Thúc đẩy hình thành DNTN vừa và lớn có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế. Điều này sẽ tạo cơ hội cho các start-up vượt qua giai đoạn đầu gia nhập thị trường, bước vào giai đoạn tăng trưởng và mở rộng quy mô, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thtư, Tạo ra “tín hiệu thể chế” tích cực cho nhà đầu tư và hệ sinh thái khởi nghiệp: Nghị quyết 68 thể hiện một sự cam kết chiến lược của Đảng và Nhà nước Việt Nam, với cam kết này sẽ giúp tăng niềm tin cho nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp trong và ngoài nước yên tâm đầu tư vào hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam, đặc biệt cấp vốn cho các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Như vậy NQ68-NQ/TW đã tạo ra chính sách nền tảng và chiến lược đối với hệ sinh thái khởi nghiệp, giúp khắc phục những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay như thiếu vốn, hạn chế năng lực quản trị, khó tiếp cận TT và cơ chế hỗ trợ. Nếu được triển khai hiệu quả, NQ sẽ mở ra một giai đoạn phát triển mới cho cộng đồng start-up Việt Nam, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo và công nghệ.

PV: Từ thực tế của bức tranh KTTN tại Hải Dương, theo bà thì bà kỳ vọng gì về những giá trị mà Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân được Bộ Chính trị ban hành vào ngày 4 tháng 5 năm 2025 sẽ mạng lại cho KTTN Hải Dương?

TS. Lê Nguyệt: Tôi cho rằng NQ68-NQ/TW của BCT chính là “cú hích thể chế” cần thiết, và cũng là thời cơ chiến lược để KTTN tại Hải Dương vươn lên mạnh mẽ và đóng vai trò trụ cột trong phát triển KTXH của tỉnh. Từ thực tiễn Hải Dương, tôi kỳ vọng NQ68 sẽ mang lại những giá trị sau:

(1) Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu doanh nghiệp tư nhân từ “lượng” sang “chất”

Tính đến giữa tháng 3 /2025, tỉnh HD có hơn 21.000 DN đang hoạt động, với tổng vốn đăng ký gần 250.000 tỷ đồng, phần lớn DNTN ở Hải Dương là DN nhỏ, siêu nhỏ, khả năng cạnh tranh thấp, thiếu năng lực đổi mới công nghệ và chưa tham gia sâu vào chuỗi giá trị. Tôi rất kỳ vọng với định hướng của NQ68, tỉnh Hải Dương sẽ tiếp tục:

* Hoàn thiện môi trường đầu tư - kinh doanh minh bạch, thông thoáng hơn;

* Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp nâng cấp công nghệ, chuyển đổi số, đào tạo nhân lực;

* Hình thành các DN quy mô vừa và lớn có khả năng cạnh tranh liên vùng, khu vực và quốc tế;

* Kết nối chuỗi giá trị: Hải Dương có tiềm năng phát triển các chuỗi giá trị liên kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ trong nông nghiệp và công nghiệp. Tôi tin rằng các chính sách trong NQ68-NQ/TW sẽ thúc đẩy việc hình thành các cụm liên kết ngành, DN vệ tinh, tạo điều kiện để DNTN của tỉnh tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng, nhất là trong ngành công nghiệp hỗ trợ, logictic và nông nghiệp sạch.

(2) Tạo động lực mạnh cho hệ sinh tháo khởi nghiệp địa phương

Hải Dương có nhiều tiềm năng khởi nghiệp trong các lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ, dịch vụ logistics. NQ68 xác định hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập, đổi mới sáng tạo, do đó tôi mong rằng:

* Tỉnh sẽ xây dựng chính sách riêng để ươm tạo start-up;

* Hình thành các quỹ đầu tư khởi nghiệp địa phương;

* Tăng cường liên kết giữa Nhà nước - Doanh nghiệp - Trường ĐH để hỗ trợ phát triển DN khởi nghiệp và doanh nhân trẻ.

(3) Khơi thông nguồn lực đất đai, vốn và hạ tầng cho DN

Một điểm nghẽn lớn tại Hải Dương là tiếp cận đất đai, tín dụng và mặt bằng sản xuất. NQ68-NQ/TW yêu cầu phải tháo gỡ thể chế, cắt giảm chi phí không chính thức. Do đó tôi kỳ vọng:

* Tỉnh sẽ phải cải cách mạnh hơn thủ tục hành chính;

* Phát triển cụm CN và vùng NL phù hợp cho DN nhỏ;

* Kết nối ngân hàng - Doanh nghiệp hiệu quả hơn, đặc biệt là DNNVV và HKD

(4). Nâng tầm vai trò và tiềm năng của KTTN trong định hướng chiến lược phát triển KT-XH của tỉnh

Với NQ68-NQ/TW làm kim chỉ nam, sắp tới tỉnh Hải Dương cần:

* Xây dựng chiến lược phát triển KTTN gắn quy hoạch tỉnh;

* Phân vai rõ giữa DNTN- DNNN- DN FDI;

* Và đặc biệt là phát huy vai trò của KTTN trong các ngành trọng điểm như nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế biến, logistics và thương mại dịch vụ.

Kết luận: Nghị quyết NQ68-NQ/TW với vai trò là định hướng vĩ mô của chính phủ, nếu được triển khai và vận dụng hiệu quả tại Hải Dương sẽ tạo cơ hội bứt phá để Hải Dương tái cấu trúc khu vực KTTN theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững. Nhưng để hiện thực hóa được kỳ vọng đó, cần có sự quyết liệt trong hành động từ phía chính quyền tỉnh, sự đồng hành của các sở ngành, và sự chủ động thích ứng, đổi mới từ chính cộng đồng DNTN.

Nguồn: Đài TH Hải Dương